Advertisement
Not a member of Pastebin yet?
Sign Up,
it unlocks many cool features!
- Buổi sáng Xuân, trời trong xanh, vơ vẩn vài cụm mây trắng. Cây
- cối đã đâm chồi nẩy lộc, cả vùng quanh nhà trông như những
- tảng xinh non ngon ngọt. Nắng chưa lên cao hẳn, trời khá ấm.
- Tôi thấy vui vui và vớ chiếc áo lạnh mỏng bước ra đầu
- phố. Chủ Nhật mọi sự êm và vắng. Khi đến ngã tư đèn
- đỏ, thấy một ông già da đen, tóc râu trắng tua tủa. Khó mà
- đoán tuổi nhưng có lẽ cũng trạc bằng tôi. Ông đứng hơi
- nghiêng dựa vào chiếc gậy chõng. Tôi giơ tay chào, miệng nói
- *"A beautiful day."* Ông ta nhìn tôi và chào lại:
- *– Ya, a beautiful day. But the day will be more beautiful and even more
- meaningful if you know how to enjoy it.*
- *(Ya, một ngày đẹp trời. Nhưng ngày sẽ đẹp hơn và thậm
- chí còn ý nghĩa hơn nếu bạn ta biết cách thưởng thức nó).*
- Đèn xanh. Ông gật đầu giơ tay chào và lững thững băng qua
- đường. Bóng ông đổ nghiêng trên mặt lộ. Ông tuy phải
- chống ba toong, nhưng bước vẫn dài và lưng vẫn thẳng.
- Tôi nhìn ông và bỗng nhiên như bị một quả thôi sơn trúng
- giữa ngực. Tôi hơi lảo đảo phải đưa tay vin vào cột đèn,
- cố đứng vững, mắt vẫn dõi theo ông già da đen.... more
- meaningful if you know how to enjoy it...
- Khi đã hoàn hồn, tôi bước lảo đảo quay trở về.
- Cái câu chào ngoài môi, chót lưỡi *"a beautiful day"* và có
- lẽ hơn nữa là cái thái độ hững hờ không mảy may để tâm
- vào câu nói hoặc có khi cái vẻ mặt không biểu lộ niềm vui
- của một ngày đẹp trời, hoặc là gì nữa tôi không biết
- đã khiến ông bạn da đen trả lời bằng một câu dài dòng.
- Lạ chứ!
- Cái mẫn cảm trong người tôi đã khiến tôi thấm ngay, cái
- trực giác lúc nào cũng sẵn sàng để có phản ứng thích hợp
- đã làm tôi run lên.
- Lết về, tôi ngồi xuống sưởi nắng ở bậc tam cấp.
- Nắng đã lên cao, có hơi chói chang.
- Nhưng bao nhiêu câu hỏi dồn dập trong đầu, lòng dạ bồn
- chồn, tôi đành bước vào trong nhà…
- -------------------
- Tôi bước vào cuộc đời qua nghề báo, hoặc hạn hẹp hơn
- nữa là một phóng viên, một người săn tin và viết tin. Ai
- cũng hiểu nghề báo chia ra rất nhiều nhánh nhỏ, có vị chuyên
- về phiếm luận, về bình luận hoặc phân tích thời cuộc, tỉ
- mỉ tìm từ ngọn ngành cho đến kết thúc một biến cố để
- đưa ra những nhận xét. Một khía cạnh đặc biệt nhất là
- những vị ký giả đó không bị yếu tố khách quan và đôi khi
- cả trung thực trói buộc như vai trò của người viết tin. Bài
- học vỡ lòng là phải khách quan và vô tư.
- Khi đã đi sâu vào nghề tôi mới thấy ông Từ Chung nói
- đúng. Mọi sự tương đối vì cùng một sự việc xảy ra, chỉ
- cần nhấn mạnh, đưa lên lead một khía cạnh nào đó của câu
- chuyện là đã mất tính vô tư và khách quan. Trong suốt những
- năm làm báo, tôi vẫn cố giữ tính vô tư và khách quan. Tôi
- tách tôi ra hẳn phía ngoài, phân tích, tìm những dữ kiện phía
- sau và cố nhìn những ảnh hưởng có thể có của biến cố.
- Kim chỉ nam vẫn rất giản dị. Five Ws and the H.
- Tính tập thành.
- Ngày một ngày hai thói quen nghề nghiệp nhiễm sâu vào suy nghĩ,
- vào cái nhìn để lúc nào không rõ, nó trở thành bản năng của
- tôi. Kiểm lại tôi thấy từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn
- cái vòng kim cô đó càng ngày càng xiết chặt đầu tôi. Đi ăn
- tiệc ở một nhà mới quen, bước vào cửa liếc mắt coi cách
- bài trí, ghi nhận cung cách chủ nhà đón tiếp vào sau đó là
- bàn ghế, bát đĩa, rượu và đồ ăn, nhất là cách thức dọn
- ăn, tôi đánh giá đối phương ngay.
- Đi ra phố gặp ông bạn quen chèo kéo ngồi cùng bàn với dăm ba
- người không quen biết. Chỉ khoảng một lúc sau tôi khung từng
- ông một. Cái tôi của ông ngồi trước mặt to. Ông ngồi xế
- tuy ăn uống nhồm nhoàm, mỗi lần uống nước thì xúc miệng
- sùng sục, nhưng tính hồn nhiên, lòng dạ ngay thẳng.
- Lần nào cũng vậy, tôi gói những nhận xét lại, nhét vào
- đâu đó trong đầu để khi cần có thể moi ra xài trong nghề
- nghiệp. Cứ thế, tôi bỗng trở thành người đứng bên lề nhìn
- mọi sự chung quanh. Cứ thế, tôi rút vào ốc đảo của tôi,
- xử dụng thói quen nghề nghiệp để đối phó với đời sống.
- Mới đây, một ông bạn chí thân bỗng can dự vào một cuộc
- vận động của một tổ chức gì đó. Tất nhiên theo ông là
- đầy chính nghĩa. Ông thuyết phục tôi, đem tình bằng hữu
- hơn nửa thế kỷ để cố lôi tôi vào cuộc.
- Sau cùng ông bạn kết luận:
- *– Tao chơi với mày lâu, vẫn nghĩ như vậy, nhưng nay tao biết
- chắc tao nghĩ đúng. Mày là thằng non engagement.*
- Không can dự!
- Hình như vậy. Tôi sợ tổ chức. Tôi sợ đồng phục.
- Tôi không muốn là con ốc trong guồng máy.
- Đúng ra có một lần tôi đã khoác đồng phục, nhưng rồi
- lại ra được.
- Khi tôi vượt biên được tàu Nhật cứu.
- Trong lúc ở trại tỵ nạn, tôi quen và nhất là rất nhanh thân
- với anh em tổ chức Người Việt Tự Do. Tôi cảm phục họ
- vì ngay sau 30/4/1975 các anh em đó đã đủ can đảm hiên ngang
- đứng lên chống Cộng Sản và tuyên bố cuộc chiến đấu
- chưa dứt vì còn những người trẻ như họ.
- Do những thân tình từ Việt Nam, Ngô Chí Dũng đã tâm sự rất
- nhiều và tôi hoàn toàn đồng ý với anh.
- Trước ngày tôi lên phi cơ đi Mỹ, Ngô Chí Dũng, Vũ Đăng
- Khuê và Phạm Thanh Linh, ba cột trụ của tổ chức mời tôi đi
- ăn. Sau vài hũ Sake, Ngô Chí Dũng chính thức yêu cầu tôi gia
- nhập tổ chức và đề nghị tôi phụ trách trông coi và phát
- triển chi bộ ở Mỹ. Họ nghiêm trang. Họ thành khẩn. Họ thua
- tôi cỡ chục tuổi và coi tôi như anh.
- Trước cái thâm tình đó, tôi tấn thối lưỡng nan, đành nói:
- *– Tôi thực sự cảm động về sự tín nhiệm của tổ chức
- nơi tôi. Thật ra nhìn chung, tình thế khó khăn chưa thấy lối
- thoát và cá nhân thì tôi sẽ phải đối phó với đời sống
- mới của một thuyền nhân. Vậy tôi chỉ xin hứa cùng các anh
- là bất cứ lúc nào tình thế thực sự cần, các anh chỉ hô
- một tiếng là có mặt tôi.*
- Lời hứa đó vào năm 1979 đã đẩy tôi vào một khúc quanh
- của cuộc đời.
- Tôi đến Mỹ định cư ở Connecticut lạnh giá, gần như ở
- ẩn, lo cuộc sống bằng đủ thứ nghề, từ đẩy xe trong
- siêu thị, trông coi vệ sinh trường học, cán sự xã hội,
- bán thịt gà KFC...
- Cuộc sống nhàm chán, nhưng vì tương lai lũ em, lũ cháu, tôi
- cắn răng nằm im cho đến khi điện thoại reng. Ngô Chí Dũng
- từ đầu kia nói:
- *– Anh hứa với tụi tôi năm năm trước hễ cần thì anh có
- mặt. Tụi tôi sống nay, chết mai mà anh vẫn lo cố hội nhập
- vào đời sống Mỹ...*
- Phải cỡ năm phút sau những xúc động ban đầu, chúng tôi
- mới nói chuyện đầu đuôi mạch lạc.
- Tôi vì không có báo Việt Nam nên không hay biết tin tức gì
- về sinh hoạt của người Việt kể cả cái tin nay đã có Mặt
- Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do hai tổ chức
- Lực Lượng Quân Dân và Người Việt Tự Do phối hợp thành
- lập từ cả năm trước do Đề Đốc Hoàng Cơ Minh lãnh đạo.
- Mặt Trận có tờ báo Kháng Chiến phát hành 7000 số mỗi
- kỳ. Mặt Trận đã lập được chiến khu ở biên giới Thái--Lào
- với ông Lê Hồng chỉ huy và hiện đã xây dựng xong
- đài phát thanh để phát thanh hướng về quốc nội.
- Tôi như người trên trời rơi xuống.
- Ngô Chí Dũng cho tôi hai tuần sửa soạn để cùng ông đi Thái
- Lan và còn lập lại lời hứa danh dự của tôi trong bữa Saké.
- Không còn chọn lựa nào khác, tôi thu vén mọi sự, dặn dò
- ba đứa cháu cố gắng tự lo, nhất là vấn đề học hành,
- rồi bay về San José. Tôi yên chí là sẽ cùng Ngô Chí Dũng về
- Thái Lan rồi làm một anh du kích có lẽ cầm M16 thay vì AK47.
- Nhưng mọi sự khác hẳn với dự tính cá nhân. Tổng Vụ
- Quốc Nội hẹn cùng Tổng Vụ Hải Ngoại đề nghị tôi chấn
- chỉnh tờ Kháng Chiến và giữ chức Tổng Ủy Tuyên Vận. Tôi
- ớ người.
- Sau khi suy nghĩ kỹ tôi đành nhận tờ Kháng Chiến và từ chối
- chức vụ Tuyên Vận với lý do rất buồn cười:
- *– Tôi bạn bè đông, nhất là dân báo chí, tôi lại trống
- mồm, e không giữ được bí mật của tổ chức.*
- Kiểm điểm báo Kháng Chiến quả có in 7000 số, nhưng chỉ
- phát hành được 3000 số. Số còn lại chất thành đống, máy
- móc không có, sổ sách lung tung. Tôi phải khởi sự từ đầu,
- lập tòa soạn và ban trị sự, tách hai cơ phận riêng vì kinh
- nghiệm cho biết tài chính là khởi đầu của mọi tai tiếng
- và rắc rối.
- Bây giờ mọi sự đã là quá khứ.
- Khi cuộc tranh chấp giữa đề đốc Hoàng Cơ Minh và đại tá
- Phạm Văn Liễu không còn chỉ ở nội bộ cấp cao mà trở
- thành công khai, Mặt Trận tan vỡ.
- Tôi rời khỏi tờ Kháng Chiến, giao toàn bộ hồ sơ tài chính
- và sổ sách ngân hàng cho ông Tuyên Vận Nguyễn Xuân Nghĩa.
- Tôi có tiếc, có hối hận gì không?
- Không! Chính trong ba năm đó, tôi đã có dịp gặp gỡ những
- người Việt Nam có lòng nhất với đất nước, với cuộc
- đấu tranh không ngừng nghỉ cho dân tộc và đặc biệt với
- rất nhiều người trẻ tuổi cho đến giờ vẫn thân quí tôi
- và có vài anh em vẫn sát cánh cùng tôi trong nhiều chuyện,
- kể cả chuyện mưu sinh.
- Đây có lẽ là một quyết định lớn trong đời mà tôi không
- xử dụng Five Ws and The H.
- Ừ nhỉ. Giá mà tôi không bị buộc vào lời hứa với anh em
- Người Việt Tự Do, giá mà tôi tìm hiểu sự việc và phân
- tích thì liệu tôi có theo lực lượng kháng chiến không?
- Có khi là do cái số cũng nên vì đã có lần chắc chắn tôi
- sẽ mặc đồng phục cả đời. Đồ lính!
- Tôi được miễn dịch vì lý do nghề nghiệp, nhưng không hiểu
- khi viết lách, đụng chạm sao đó, viên phụ tá bộ trưởng
- Dân Vận Chiêu Hồi của ông Hoàng Đức Nhã mời tôi lên và
- chìa cho tôi cái giấy gọi nhập ngũ. Bạn bè tôi lính tráng
- hết và đến tận giờ này tôi mới phải đi cũng là vừa.
- Trình Diện Quân Vụ thị trấn thì gặp ông Phạm Hùng, hai
- đứa cười hà hà.
- Vào Thủ Đức, tôi vốn mảnh khảnh nên tập phờ người
- vẫn lẹt đẹt đằng sau. Trông thấy ông huynh trưởng thì
- chết khiếp. Không phạt kiểu này thì phạt kiểu khác. Huấn
- nhục mà. Giáng Sinh năm đó đại đội tôi được lệnh về
- tăng cường, gác ở các ngã tư. Một hôm đang lớ ngớ ở ngã
- tư Lê Thánh Tôn và Tự Do thì ông Nguyễn Văn Ân trông thấy,
- xà xe vào hỏi:
- *– Hả, sao cậu lại phải đi lính?*
- *– Thì Bộ Quốc Phòng không cho hoãn dịch chứ sao.*
- *– Cậu con một của góa phụ trên 60 phải được hoãn chứ.*
- Chính ông thượng nghị sĩ Nguyễn Văn Ân đã đến nhà tôi
- lấy giấy tờ khai sinh, sổ gia đình lung tung và thân chinh đi
- can thiệp.
- Tôi thú thật không rõ ông này giở võ gì.
- Ông là thượng nghị sĩ thuộc liên danh Dân Chủ thân chính
- thế lực đầy người. Tôi chỉ biết một hôm đang bò tập
- bắn đại liên thì có giấy gọi về trại. Ông đại đội
- trưởng nhìn tôi bảo:
- *– Ông nhà báo thế lực dữ. Chính bộ trưởng bộ phủ Thủ
- Tướng ký giấy cho ông xuất ngũ. Ông lo trả đồ quân trang
- ngay rồi về kẻo tối.*
- Tôi nhớ một ông huấn luyện viên từng mắng chúng tôi:
- *– Các anh sẽ là rường cột của quân lực. Để huấn luyện,
- chính phủ phải chi mỗi anh trên một triệu đô la. Tính ra đô
- la vì đó là viện trợ Mỹ, họ tính từ đôi vớ cho đến
- cái mũ sắt. Cái gì cũng qui ra tiền viện trợ. Mình yếu,
- mình nhược tiểu, cái gì cũng phải nhờ Mỹ. Các anh chính
- là niềm hy vọng của cuộc chiến thắng để Việt Nam có thể
- vươn lên. Tôi mong các anh để tâm trí vào việc học tập vì
- những lý do vừa nói.*
- Trong suốt thời gian ở Thủ Đức, có lẽ đây là bài học lớn
- nhất cho tôi. Dẫu sao thì tôi trở lại nghề báo cho đến 1975.
- Chả cần nhắc lại làm gì nhưng mỗi người trong chúng ta đều
- vẫn còn hằn sâu những kỷ niệm đau buồn. Mọi sự càng lúc
- càng tuyệt vọng. Lũ nhà báo chúng tôi có lúc gần cả trăm
- mạng tụ họp ở trụ sở Thượng Nghị Viện. Tin tức lung
- tung và có vẻ như ông Nguyễn văn Thiệu đã phải quyết định
- bỏ của chạy lấy người. Lũ chúng tôi xem ra cũng bàng hoàng
- và mất định hướng như mọi người. Đi hay ở lại? Tại
- sao đi? Tại sao ở lại? Và cả chục câu hỏi tiếp đó.
- Nhỏ hẹp trong tòa soạn Chính Luận. Ông Đặng Văn Sung xem ra
- cũng không biết quyết định thế nào.
- Có tin là Chính Luận đã liên lạc với tòa đại sứ Mỹ để
- bốc tất cả nhân viên đi. Song song lại có tin là Chính Luận
- đã điều đình mua một chiếc tàu lớn để di tản. Ông Thái
- Lân thẫn thờ, lúc nào cũng như người mất hồn.
- Tôi cười nói với ông.
- *– Nó cũng Mít. Mình cũng Mít. Nó bảo nó yêu nước, chống
- Mỹ cứu nước. Mình cũng yêu nước, chống Cộng Sản. Để
- nó vào xem sao. Có gì mà xếp lo quá vậy?*
- Ông Lân nhìn tôi nhẹ nhàng trả lời:
- *– Ông không bao giờ sống với Cộng Sản nên nói thế. Nó mà
- vào đây, những đứa như tôi đi tù lập tức, con cái ba đời
- không ngóc đầu lên được. Ông không sợ, nhưng tôi sợ. Tôi
- thật sự sợ, cho tôi, cho gia đình tôi, và cho cả miền Nam. Ông
- chưa sống với Cộng Sản muốn nói, muốn nghĩ gì cũng được,
- nhưng đợi đến khi vào gông thì không thoát được đâu.*
- Tôi như bất cứ người dân miền Nam nào, bối rối, không
- định hướng trước những biến động quá nhanh, quá lớn
- của đất nước. Nhưng thăm thẳm trong đáy lòng tôi là ước
- mong được chứng kiến lịch sử, có mặt trong một sự kiện
- đáng gọi là vĩ đại của Việt Nam.
- Nhìn lại, tôi vẫn không dám khẳng định đây có phải thật
- sự là lý do khiến tôi thờ ơ với những rủ rê di tản từ
- tàu bay, tàu thủy, hay ghe chài. Nhưng biến cố vĩ đại của
- lịch sử đã phản bội tôi. Hồi bé khi Việt Minh tiếp thu
- Hà Nội tụi thiếu nhi nhóc tì như tôi được dạy hát:
- *`Trùng trùng quân đi như sóng,`*
- *`Lấp lánh lưỡi lê sáng ngời.`*
- *`Chúng ta đi cho dân tộc tự hào,`*
- *`Cờ máu đào tung bay trước gió.`*
- Hay:
- *`Năm cửa ô đón mừng`*
- *`Đoàn quân tiến về, Như đài hoa xuống dần,`*
- *`Hà Nội đầy tiếng quân ca.`*
- Ngày 30 tháng Tư cả Sài Gòn đổ ra đường, nhưng không phải
- *“Như đài hoa xuống dần”* nở bung ra để đón đoàn quân
- giải phóng.
- Kẻ bại tò mò nhìn những người lính Bắc Việt quần áo bèo
- nhèo, dép râu mũ cối, súng dài hơn người. Cái quân đội
- với những người lính thấp lủn chủn, mặt mày xanh mét,
- ngơ ngác nhìn thành phố Sài Gòn, gặp gì cũng trố mắt lên
- nhìn. Cái quân đội đó so với người lính VNCH thật khác xa
- một trời, một vực.
- Đối với tôi cái ước mong được chứng kiến lịch sử là
- một cảm giác thất vọng não nề. Đại Thắng Mùa Xuân như
- người Cộng Sản lớn lối quả không thể ghi vào lịch sử
- dân tộc với cái tên mạo xưng đó.
- Chúng ta đều biết những gì xảy ra ở miền Nam.
- Kinh tế mới. Tù cải tạo. Đánh tư sản mại bản. Tiêu diệt
- tàn dư văn hóa Mỹ, Ngụy. Đổi tiền.
- Cùng là người Việt, nhưng kẻ thắng đã đối xử với dân
- chúng miền Nam như kẻ thù. Đâu đó lởn vởn trong đầu tôi
- câu hát *“Giặc từ miền Bắc vô Nam. Bàn tay nhuốm máu anh em.”*
- Bọn văn nghệ sĩ ký giả chúng tôi sau mấy ngày được lệnh
- tập trung ở số 2 Nguyễn Du. Tôi bò tới thấy cả vài trăm
- ông, có ông quen, có ông cả đời chưa gặp. Vài ông nằm vùng
- hoặc Cách Mạng 30 xớn xác ra vẻ ta đây. Tôi thấy dăm ông
- cán bộ trông cũng chưa hoàn hồn sau Đại Thắng Mùa Xuân.
- Đảo qua, đảo lại, tôi thấy Nguyễn Ngọc Lương làm cho New
- York Times bèn bấm nhau lỉnh đi. Tôi đã đọc một số sách
- về Đức Quốc Xã âm mưu tiêu diệt dân Do Thái và KGB của
- Nga bắt bớ, thủ tiêu cả chục triệu người không cần lý do.
- Suy đi, nghĩ lại tôi quyết định lặn sâu, lặn kỹ. Tôi né
- không gặp mấy ông nhà văn, nhà báo. Tôi không gia nhập hội
- Ký Giả Yêu Nước, những người dự được phát đường,
- phát sữa hộp. Tôi xông ra chợ trời, buôn đầu phố, bán
- cuối phố. Tôi buôn vàng, buôn thuốc tây, buôn đồ cổ.
- Hầm bà làng, có gì mua được là bán được.
- Tôi lôi toàn bộ tủ sách của tôi cùng Hùng Phong bày ra vỉa
- hè Lê Lợi bán.
- Loại sách bán chạy nhất là loại sách chuyên về *“kỹ
- thuật”* như Radio. Ồ sao mà Giản Dị. Điều tức cười là
- vào thời điểm 75 thế giới đều xài transistor, không ai còn
- để ý đến bóng đèn trong các dụng cụ như Radio nữa. Bắt
- được mánh tôi đến nhà mấy ông bạn ôm cả chồng loại
- Mechanic Popular và bán như tôm tươi.
- Loại thứ hai là tự điển. Có một vụ tôi nhớ tới bây
- giờ. Hùng Phong lôi ở đâu ra một bộ toàn tập của Alexander
- Dumas, từ Ba Người Ngự Lâm Pháo Thủ cho tới Hai Mươi Năm
- Sau. Sách có lẽ của một gia đình thế phiệt bỏ đi Mỹ, đóng
- gáy mạ vàng. Có một ông Bắc Kỳ già trông dáng thư sinh ngồi
- lật và mân mê bộ sách. Tinh ý tôi biết ngay và hết sức tán
- dương Dumas. Khi ông hỏi, tôi đòi 30 đồng. Ông ngẩn ngơ.
- Hôm sau ông trở lại.
- Tự nhiên tôi nhớ đến Hà Nội và hỏi:
- *– Thế bác có bao nhiêu tiền trong túi?*
- *– Tôi chỉ có 15 đồng.*
- *– Bác đưa 10 đồng và ôm sách lè lẹ cho tiện việc sổ sách.*
- Giữa ông già hom hem và trí thức của Hà Nội ngày xưa với
- cụ Dumas hẳn có nhiều kỷ niệm đáng nhớ.
- Mọi sự thay đổi hẳn sau vụ nổ bom ở Công Trường Con
- Rùa. Công an bảo vụ này dính dáng đến bọn văn nghệ sĩ
- phản động. Bạn bè anh em tôi bị bắt rạt gáo. Sáng ra hỏi
- thăm xem thêm những tên nào bị bắt. Tôi lặn không đi buôn
- len, không ra chợ trời mà chui vào chợ Bến Thành bán bún
- mọc. Cuộc sống thấp thỏm lúc nào cũng như ngồi trên lửa
- cho đến lúc Văn Chi (*1) bị bắt thì tôi hết chịu nổi.
- Nay ngủ chỗ này, mai ngủ chỗ khác, tôi tổ chức vượt
- biên. Đây là quyết định mười chết một sống. Một toán 48
- người không biết gì về biển cả leo lên một chiếc thuyền
- mong manh để mưu sống tự do.
- Sau hơn nửa tháng lênh đênh, thuyền chết máy, thực phẩm
- không còn thì may mắn chúng tôi được một tàu Nhật vớt. Nếu
- phải vượt biển lại lần thứ hai tôi có dám không?
- Đến Mỹ tôi cũng lại ở đáy của xã hội, làm đủ thứ
- nghề. Cán sự xã hội. Đẩy xe trong siêu thị. Bán thịt gà
- KFC. Làm vệ sinh trường học. Tôi âm thầm sống ở Bắc Mỹ
- lạnh thấu xương, cố nhắm mắt quên dĩ vãng cho tới khi ông
- Ngô Chí Dũng nhắc lại lời hứa năm xưa.
- Hình như tôi vừa tóm tắt cuộc đời tôi, nhưng suốt chiều
- dài của cuộc sống như một bản năng thứ hai đã ăn sâu vào
- trong óc, lúc nào tôi cũng nhìn vấn đề và hành xử theo cảm
- quan của một phóng viên. Nó hiện hữu trong tôi một cách tự
- nhiên. Chưa bao giờ tôi đặt vấn đề với tôi. Nó hòa nhập
- vào tôi. Cái vòng kim cô êm ái đó hướng dẫn tôi, định
- hướng cuộc đời tôi cho đến buổi sáng đẹp trời và câu
- chào hờ hững: *“A Beautiful day.”* Tình trạng bệnh tật của
- tôi lâm vào ngõ bí.
- Những chỉ số về gan lên cao quá.
- Bilirubin total 5.7 trong khi bình thường là 0.3/0.7.
- Bilirubin Direct 3.46 trong khi bình thường là 0.03/0.18.
- Chỉ số gan AFP của tôi là 146092.60 trong khi ở người bình
- thường là 0.0/6.13
- Bác sĩ bệnh viện John Hopkins lắc đầu nói không thể hóa
- trị tiếp vì cơ thể sẽ không chịu nổi.
- Không thể nói là không lo lắng, không thất vọng.
- Nhưng buổi sáng với ông bạn da đen khiến tôi nhìn đời khác
- hẳn. Ừ nhỉ, tại sao tôi luôn luôn sống bên lề cuộc đời,
- lững thững quan sát thiên hạ, ghi nhận các biến cố để rút ra
- những nhận xét và cố đi tìm một câu trả lời khách quan của
- một phóng viên? Tại sao tôi không lăn xả vào cuộc sống, hiểu
- nó để thấy nó đẹp, nó có ý nghĩa hơn và từ đó thưởng
- thức chính cuộc sống với đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống?
- Bỗng nhiên mọi sự òa vỡ trong tôi.
- Bệnh tật nay lui vào hàng thứ hai.
- Nó đó. Tôi chiến đấu với nó với tất cả nỗ lực. Gia
- đình, vợ con tôi lúc nào cũng sát bên tôi.
- Nhưng chắc chắn còn một cái tôi khác quan trọng hơn mà tôi
- quên đi, cái tôi khác bị cái tôi phóng viên đè ép không xuất
- hiện trong đời sống tôi.
- Tôi suy nghĩ tới, lui. Đã đến lúc dù muộn, vẫn phải trở
- lại cái tôi nguyên thủy, cái tôi từ lúc lọt lòng mẹ, cái
- tôi Nhân Chi Sơ. Những câu nói tưởng như sáo ngữ trở nên
- đầy ý nghĩa. Vạn vật Đồng Nhất Thể. Từ Bi. Bồ Tát Hạnh.
- Cái bản án của ung thư gan có thể sẽ đến rất sớm, hoặc
- biết đâu tôi sẽ khỏi bệnh, nhưng dù sao nó cũng đã trở
- thành thứ yếu so với điều mà tôi đang cố gắng làm: Sống
- đích thực với tôi.
- Cũng chưa biết thế nào là đích thực, nhưng nhất định tôi
- sẽ quăng năm chữ Who Where When What Why và chữ How vào một xó.
- Tôi sẽ cố sống với những suy tư mới.
- *“The day will be more beautiful and even more meaningful if you know how
- to enjoy it.”*
- Câu nói từ nay sẽ là kim chỉ nam cho cuộc đời tôi. Tự
- nhiên tôi thấy vui hơn, thấy cuộc đời trong sáng hơn, mọi
- sự có ý nghĩa hơn và nhất là ai cũng đáng yêu cả. Phải
- chăng tôi đang trên đường đi tìm cái tôi đích thực, cái
- tôi ban đầu? Nếu quả như vậy thì những chuyện khác, kể
- cả chuyện ung thư cũng chỉ là thứ yếu.
- 6/15/2013
- Lê Thiệp
- Trích trong *“Ung Thư ơi Chào Mi”* do Tủ sách Tiếng Quê Hương
- xuất bản
- Địa chỉ liên lạc:
- P.O. Box 4653 Fall Church VA 22044 USA
- **email:**
- * `uyenthaodc@gmail.com`
- * `uyenthao174@yahoo.com`
Advertisement
Add Comment
Please, Sign In to add comment
Advertisement